Mã số thuế: 3801089904 - Đại diện pháp luật: Hoàng Lê Cường. Địa chỉ: Số 27A đường 3/2, khu phố Ninh Thịnh - Huyện Lộc Ninh - Bình Phước . Đinh Văn Quế - WShowresult. Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, 2017, Số 1+2, tr.54-55 24, Bình luận khoa học bộ luật Hình sự - Phần các tội phạm : Bình luận chuyên sâu. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn chuyên ngành viết văn. Bình luận án hình sự phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình tiến hành tố tụng và một số án lệ, quyết định giám đốc thẩm (tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung) Tác giả: TS.Trần Quang Hiển, TS. Đỗ Đức Hồng Hà (Chủ biên) Nhà xuất bản: Lao động Số trang: 504 trang Khổ: 16 x 24 cm bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo trƯỜng ĐẠi hỌc luẬt tp hỒ chÍ minh khoa luẬt dÂn sỰ tiỂu luẬn kẾt thÚc hỌc phẦn mÔn luẬt tỐ tỤng dÂn sỰ bÌnh luẬn bẢn Án, quyẾt ĐỊnh cỦa tÒa Án sỐ 3562018kdtm st ngÀy 21 12 2018 vỀ “tranh chẤp hỢp ĐỒng mua bÁn hÀng hÓa, ĐÒi lẠi tÀi sẢn” Bình luận bản án Luật Sở hữu trí tuệ – “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” – Bản án 213/2014. Ông là tác giả của tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” Loại hình: Mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm đã được Cục bản quyền cấp giấy Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. - Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án... Bản án hình sự sơ thẩm là văn bản tố tụng đặc biệt của Toà án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam kết thúc hoạt động xét xử xác định bị cáo có tội hay không có tội quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm pháp lý của bị cáo với Nhà nước cụ thể hoá bằng hình phạt quy định trong BLHS, xác định trách nhiệm của bị cáo với bị hại nếu có và các thành phần khác cụ thể hoá bằng mức bồi thường thiệt hại quy định trong BLDS. Bản án hình sự sơ thẩm khi được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì những quyết định trong bản án đưa đến hậu quả pháp lý rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người bị buộc tội và những chủ thể khác có liên quan thể hiện tại Điều 31 Hiến Pháp, Điều 14 Luật tổ chức Tòa án nhân dân, các Điều 13, 14 BLTTHS. Vì vậy việc soạn thảo bản án nhằm phản ánh khách quan, toàn diện, đầy đủ vụ án là một yêu cầu rất quan trọng, thực tiễn cho thấy hiện nay việc viết bản án vẫn còn xảy ra nhiều sai sót. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm và các bản án xin nêu một số nội dung nhằm hoàn thiện vấn đề viết bản án hình sự sơ thẩm như sau Phần mở đầu. – Phải ghi đầy đủ tiền án, tiền sự của bị cáo. – Trường hợp bị hại chết thì trong phần đầu của bản án vẫn ghi căn cước của bị hại. Không ghi lý lịch của bị hại đã chết trước đại diện hợp pháp của bị hại. – Trước khi mở phiên tòa, gia đình bị cáo đã thỏa thuận và bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại. Tại phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền mà gia đình đã ứng ra để bồi thường thì không xác định đại diện gia đình bị cáo là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà xác định những người này với tư cách là người làm chứng. – Trường hợp bị hại nằm viện, được người thân chăm sóc và họ yêu cầu bồi thường tiền công chăm sóc thì trong bản án không xác định người chăm sóc này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì khoản thu nhập thực tế của người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị được tính để bồi thường cho bị hại, do vậy cần xác định người chăm sóc cho bị hại là người làm chứng. – Đối với trường hợp “Việc vắng mặt của những người làm chứng trong vụ án không ảnh hưởng đến việc xét xử do Tòa án đã gửi giấy triệu tập hợp lệ” được xem xét giải quyết trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa và được ghi vào biên bản phiên tòa mà không ghi ở phần nhận định của Tòa án. – Trường hợp người mua tài sản sau khi biết số tài sản đã mua là tài sản trộm cắp và đã giao cho Cơ quan Công an, không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền đã mua tài sản thì cần xác định người mua tài sản đó là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đồng thời không tịch thu số tiền mà người mua tài sản không đòi của bị cáo, vì đây là quan hệ dân sự. Phần nội dung. Khi viết phần nội dung vụ án không ngắt đoạn theo từng vấn đề vì rất khó xác định rõ hành vi phạm tội của bị cáo. Ghi tóm tắt hành vi phạm tội của bị cáo được mô tả trong bản cáo trạng, mặc dù là tóm tắt, nhưng phải thể hiện được đầy đủ về thời gian, không gian, địa điểm thực hiện tội phạm, diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, thủ đoạn của người phạm tội và hậu quả của tội phạm; ý kiến, quan điểm của KSV về nội dung truy tố bị cáo theo cáo trạng ghi rõ số, ngày, tháng, năm của bản cáo trạng, hoặc quyết định truy tố, tên VKS truy tố ban hành bản cáo trạng, hành vi của bị cáo theo tội danh mà VKS truy tố; tội danh điểm, khoản, điều của BLHS và mức hình phạt, hình phạt bổ sung, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS theo các điểm, khoản, điều của BLHS; biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo tại phiên tòa; quan điểm xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và các đương sự…mà VKS đề nghị áp dụng đối với bị cáo và các đương sự. Lời bào chữa tranh luận của người bào chữa, của bị cáo; ý kiến của bị hại, những người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập. Ngoài ra các chứng cứ khác như lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết quả giám định… cũng được ghi vào phần này để phục vụ cho việc nhận định của HĐXX ở phần sau. Phần Nhận định của Tòa án. – Bản án đã trình bày nội dung của vụ án thì ở phần nhận định của Tòa án không trình bày lại toàn bộ nội dung đã được trình bày ở phần trước làm bản án rất dài, không cần thiết. Chỉ cần nhận định rồi kết luận tóm tắt hành vi đặc trưng phạm vào điểm, khoản, điều luật nào của BLHS trừ khi bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội mới phải nhận định cụ thể từng nội dung. – Phần nhận định của Tòa án không ghi “Nhận định của HĐXX” mà phải ghi là “Nhận định của Tòa án”. Các đoạn văn ở phần nhận định của Tòa án phải đặt trong dầu ngoặc vuông [] như hướng dẫn về mẫu bản án của HĐTPTANDTC. – Khi cho bị cáo được hưởng án treo thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định về thời gian thử thách đối với bị cáo Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Trong phần nhận định của Tòa án phải xác định rõ đối tượng phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. – Trường hợp số tiền bồi thường của bị cáo nhiều hơn số tiền mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại thì trong phần nhận định của Tòa án phải nhận định rõ việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo với bị hại nhiều hơn số tiền chiếm đoạt. – Trong phần nhận định của Tòa án phải nêu rõ việc bị cáo đã sử dụng vật chứng vào việc thực hiện hành vi phạm tội như thế nào để xử lý vật chứng trong phần quyết định của bản án. Phần quyết định. + Hình phạt. – Khi ghi các điều luật khác nhau thì ghi dầu ; giữa các điều luật. Ví dụ “Áp dụng khoản 1 Điều 134; Điều 17….”. – Đối với bị cáo áp dụng hành phạt tù nhưng cho hưởng án treo, thì trong phần quyết định của bản án ghi rõ tên và địa chỉ của cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; đồng thời ghi rõ trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc, cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Ngoài ra, cần tuyên hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định tại khoản 5 Điều 65 BLHS Xem Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. – Quyết định của bản án phần tổng hợp hình phạt của nhiều bản án phải nêu cụ thể mức hình phạt của bản án mà bị cáo đã bị Tòa án xét xử trước đó. +Biện pháp tư pháp. – Trong quyết định phần bồi thường thiệt hại trường hợp bị cáo gây thiệt hại cho nhiều bị hại, không ghi tổng số tiền phải bồi thường cho tất cả những bị hại mà phải ghi số tiền bị cáo phải bồi thường cho từng bị hại. Ngoài ra phải ghi nhận cụ thể số tiền bị cáo phải bồi thường theo thỏa thuận, trong đó đã bồi thường được bao nhiêu, còn phải bồi thường bao nhiêu. – Trong vụ án đồng phạm, các bị cáo cùng gây ra thiệt hại tài sản thì cần áp dụng Điều 587 BLDS năm 2015 để tuyên trách nhiệm liên đới bồi thường đối với các bị cáo. Ngoài ra, cần tuyên số tiền cụ thể mà từng bị cáo phải bồi thường và số tiền còn phải bồi thường là bao nhiêu Chỉ liên đới bồi thường thiệt hại khi nhiều bị cáo cùng có sự thống nhất ý chí trong việc gây thiệt hại “Cùng gây thiệt hại”. Tại phiên tòa nếu có bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền chiếm đoạt của họ, thì Tòa án phải nhận định cụ thể số tiền mà những bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường là bao nhiêu để trừ đi, số còn lại phải bồi thường là bao nhiêu. – Trước khi mở phiên tòa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận được với nhau về phần bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án ghi nhận việc bồi thường thiệt hại thì trong bản án không tính án phí dân sự sơ thẩm Xem Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. – Trường hợp bị cáo đã bồi thường xong thì trong phần quyết định về các biện pháp tư pháp của bản án không viện dẫn điều luật mà chỉ ghi nhận các bị cáo đã bồi thường. – Trước khi mở phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi hoàn số tiền thiệt hại, đại diện gia đình bị cáo chấp nhận yêu cầu của bị hại và đã nộp đủ số tiền yêu cầu thì trong phần quyết định của bản án về bồi thường thiệt hại không áp dụng các quy định của BLDS để buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại, trường hợp này, trong bản án chỉ cần ghi nhận bị cáo đã bồi thường theo yêu cầu của bị hại. – Đối với tiền cấp dưỡng thì trong phần quyết định cần tuyên rõ số tiền cấp dưỡng, cũng như bị cáo phải chịu tiền án phí dân sự không có giá ngạch đối với số tiền cấp dưỡng hàng tháng đó và tuyên lãi suất trả chậm đối với số tiền cấp dưỡng chậm trả. + Xử lý vật chứng. – Quyết định của bản án về xử lý vật chứng không nêu lại đặc điểm của vật chứng mà nội dung này được thực hiện tại phần Nhận đình của Tòa án. Đồng thời cần nêu rõ căn cứ vào Biên bản thu giữ vật chứng để giải quyết. + Án phí. Trong phần quyết định của bản án không tính toán phần án phí dân sự vì phần tính toán án phí được thực hiện tại phần nhận định của Tòa án. Một số nội dung khác – Trường hợp HĐXX quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án thì khi Nghị án phải thảo luận nội dung này Điều 326 BLTTHS năm 2015. – Trường hợp bản án tuyên trả lại tài sản của bị cáo đã bị kê biên cho bị cáo nhưng số tài sản này không phải là vật chứng thì chỉ tuyên trả lại tài sản mà không nêu cụ thể điều luật áp dụng. – Trong bản án không ghi “Dự kiến xử phạt bị cáo…”, vì Bản án đã được HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng nghị án trước khi tuyên án. – Trường hợp bị cáo có hành vi gian dối để bị hại giao cho bị cáo tổng số tiền là đồng. Trước khi khởi tố vụ án, bị cáo đã trả cho bị hại số tiền đồng thì Tòa án không xét xử bị cáo chiếm đoạt tổng số tiền là đồng. – Trường hợp bị cáo không bị tạm giữ theo dội danh bị cáo đang bị xét xử mà bị tạm giữ theo tội danh khác do cơ quan tiến hành tố tụng ngoài Quân đội áp dụng thì trong bản án phải ghi rõ bị cáo bị tạm giữ theo tội danh cụ thể nào. – Đối với vụ án đồng phạm thì trong bản án phải cá thể hóa trách nhiệm hình sự của từng bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự, dân sự của từng bị cáo theo quy định tại Điều 58 BLHS. – Quá trình giải quyết vụ án, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa thì trong hồ sơ vụ án vẫn có Biên bản phiên tòa. – Vấn đề kiến nghị, sữa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý được lập thành văn bản riêng được đọc tại phiên tòa cùng với bản án hoặc gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan mà không nêu trong bản án Điều 264 BLTTHS năm 2015. Soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm là công việc thường xuyên của Thẩm phán và những người được giao soạn thảo bản án. Bản án hình sự sơ thẩm là sản phẩm thể hiện kết quả toàn bộ hoạt động tố tụng của Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi tuyên án. Vì vậy, chất lượng bản án phụ thuộc vào trình độ, bản lĩnh và kỹ năng nghiệp vụ của Thẩm phán và HĐXX. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay đòi hỏi mỗi Thẩm phán và những người giao soạn thảo bản án phải nắm chắc quy định của pháp luật, hồ sơ vụ án, thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để có những bản án hình sự thực sự công minh, khách quan, đúng quy định, thấu tình đạt lý. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ- Điều 93 của Bộ luật hình sự năm 1999Điều 93. Tội giết người"Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung than hoặc tử hình … m Thuê giết người hoặc giết người thuê;n Có tính chất côn đồ…”- Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999“Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác… Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”… Sự cần thiết phải công bố án lệBộ luật hình sự năm 1999 đã quy định về tội giết người Điều 93 và tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” khoản 3 Điều 104. Hai tội danh này có nhiều dấu hiệu cấu thành tội phạm cơ bản giống nhau như Đều có hành vi khách quan là đánh, đâm, chém, bắn…; hậu quả là nạn nhân chết. Việc phân biệt hai tội danh này chủ yếu dựa vào ý thức chủ quan của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong nhiều trường hợp việc phân định hai tội danh nêu trên là rất khó khăn do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khó có thể xác định ý thức chủ quan của người phạm tội và thực tế thì cơ sở để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội chủ yếu dựa trên việc đánh giá những biểu hiện khách quan bên ngoài của hành vị phạm tội. Bên cạnh đó, việc xác định như thế nào là “gây thương tích dẫn đến chết người” cũng chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau về cùng một hành vi, từ đó dễ dẫn đến sai sót trong việc xác định tội danh của người phạm Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn, công bố Án lệ số 01/2016/AL nhằm làm rõ sự khác biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích với tình tiết tăng nặng định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Theo đó, dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt hai tội này là về ý thức chủ quan của bị cáo nhằm tước đoạt tính mạng của người khác hay chỉ có ý muốn gây thương tích cho người khác, họ có thấy hoặc buộc phải thấy trước hậu quả chết người xảy ra hay không? Nội dung vụ án và tình huống của án lệTrong các vụ việc tạo lập Án lệ số 01/2016/AL, bị cáo Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh, Đoàn Đức Lân đánh anh Nguyễn Văn Soi để trả thù bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay anh Soi để gây thương tích. Sau đó, Mạnh đã thực hiện hành vi đâm 02 nhát vào mặt sau đui phải, làm anh Soi chết. Kết luận giám định cho thấy anh Soi bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm, vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch, đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân bị hại chết là do cú sốc mất mấy cấp không hồi phục do vết thương động mạch. Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh đã bỏ trốn, đang bị truy lệ này đang xem xét trách nhiệm hình sự của người chủ mưu trong một vụ án hình sự có đồng phạm tham gia. Trong án lệ này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã căn cứ vào ý thức chủ quan của bị cáo là có mong muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại không và hành vi khách quan thể hiện bên ngoài chứng minh cho ý thức chủ quan đó để xác định bị cáo phạm tội giết người hay cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”. Trường hợp này, người chủ mưu không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại nên chỉ yêu cầu người thực hành gây thương tích vào chân, tay bị hại; không yêu cầu người tiến hành tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Người thực hành làm đúng yêu cầu của người chủ mưu, nhưng sau đó nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp ngoài ý muốn của người chủ mưu…Trong trường hợp này, người chủ mưu chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết Hoàn cảnh tương tự được áp dụng án lệÁn lệ số 01/2016/AL nhằm hướng dẫn các Tòa án trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người chủ mưu phạm tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” trong vụ án có đồng phạm. Theo đó, trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.Án lệ số 01/2016/AL được hình thành trên cơ sở một vụ án có đồng phạm và người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là người chủ mưu. Tuy nhiên, bản chất của việc xác định bị cáo phạm tội giết người hay tội cố ý gây thương tích với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” là ở chỗ xác định ý thức chủ quan của bị cáo có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại hay không và hành vi khách quan chứng minh được cho ý thức chủ quan của bị cáo mà không phụ thuộc vào việc bị cáo đó là người chủ mưu hay người thực hành. Vì vậy, tình huống án lệ này cũng nên được áp dụng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm. Nếu chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội không có ý định tước đoạt tính mạng của người bị hại, khi gây thương tích, bị cáo không tấn công vào những phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người, việc nạn nhân chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo thì cũng cần áp dụng án lệ này để xử bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” mà không xử tội “giết người”.Tuy nhiên, khi xem xét án lệ này cũng còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm cho rằng các bị cáo được thuê gây thương tích hiện đang bỏ trốn, chưa bắt được. Việc xác định tội danh đối với người thuê phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người chủ yếu dựa vào lời khai của bị cáo và sự phù hợp với vị trí gây thương tích. Chưa có căn cứ xác định ý thức chủ quan cũng như đầy đủ diễn biến hành vi khách quan của người được thuê khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, án lệ này chưa phải là giải pháp pháp lí toàn diện, dễ bị thay đổi nếu bắt được các bị cáo bỏ trốn và xuất hiện những tình tiết khác với vụ án đã được xét xử. Đặc biệt, khó khăn trong việc hiểu như thế nào là “đảm bảo những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau” để áp dụng xét xử các vụ án hình sự tương tự theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số 03/2015/ là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info - Bản án nói chung và bản án hình sự sơ thẩm nói riêng do Tòa án ban hành nên là văn bản tố tụng tư pháp của Nhà nước nhằm điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa Nhà nước với cá nhân, cơ quan, tổ chức. Qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. Về hình thức, bản án là một trong các “văn bản tố tụng” [1] của Tòa án được soạn thảo với mẫu thống nhất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS. Việc soạn thảo bản án hình sự sơ thẩm đảm bảo được các yêu cầu là một nội dung rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, nhất là hiện nay, việc công bố bản án là một yêu cầu bắt buộc. Đặc biệt là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cũng đã ban hành mẫu và hướng dẫn viết bản án hình sự sơ thẩm thống nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định về viết bản án hình sự sơ thẩm; công tác kiểm tra giám đốc án, cũng như nghiên cứu một số vụ án, chúng tôi thấy còn nổi lên một số tồn tại trong việc viết bản án. 1. Về thể thức bản án Theo thống nhất tại hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án năm 2017 của Tòa án nhân dân tối cao thì thể thức và kỹ thuật soạn thảo bản án được thực hiện theo quy định tại Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH 14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy còn có một số bản án viết chưa đúng cỡ chữ, tùy tiện viết hoa; viết hoa danh từ riêng chỉ tên người, viết hoa tên địa lý hoặc tên cơ quan, tổ chức...chưa đúng thậm chí ngay trong một bản án nhưng tồn tại hai cách viết khác nhau về cùng một nội dung. Ví dụ “Huân chương chiến sĩ vẻ vang” phải là Huân chương Chiến sĩ vẻ vang; hoặc “Thành phần hội đồng xét xử Sơ thẩm gồm có” phải là “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”... 2. Về nội dung của bản án Phần mở đầu Phần này phản ánh các nội dung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 BLTTHS gồm Thông tin của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa; thời gian, địa điểm mở phiên tòa, xử công khai hay xử kín...Tuy phần này được xác định là mẫu thống nhất nhưng giữa các bản án được công bố cũng còn nhiều nội dung chưa thống nhất là - Phần tiêu đề ở góc trái bản án Có bản án in đậm nội dung “Bản án số 04/2020/HS-ST ngày... tháng... năm” có bản án lại in thường; có bản án ghi “Bản án số 04/2020/HSST”. Có bản án lại “sáng tác” thêm mục “Vụ T và Tr; tội “Đánh bạc” sau số bản án và ngày tháng - là những nội dung mà mẫu bản án của TANDTC không hướng dẫn phải viết vào bản án. - Phần ghi thông tin về những người tiến hành tố tụng, thời gian địa điểm xét xử Cùng một nội dung đã được mẫu bản án hướng dẫn thống nhất nhưng trong thực tế nhiều bản án còn viết với nhiều hình thức khác nhau và chưa đúng mẫu bản án như Có bản án viết “Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”, bản án khác lại viết “Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có”; hoặc “Các hội thẩm nhân dân 1. Ông Nguyễn Văn A; 2. Bà Nguyễn Thị B” thay vì phải là “Các hội thẩm nhân dân Ông Nguyễn Văn A; Bà Nguyễn Thị B”. Về địa điểm xét xử Có bản án viết “... tại trụ sở Tòa án nhân huyện C” hoặc “... tại phòng xử án Trung đoàn X, Quân khu Y” có bản án lại viết “... tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện C”. Theo chúng tôi, nếu vụ án được xét xử tại trụ sở Tòa án thì phải viết “tại phòng xử án” và nếu xét xử tại địa điểm khác ngoài trụ sở thì phải viết “tại hội trường”... mới chính xác. Có bản án chỉ viết “Ngày.. .tháng.. .năm, tại trụ sở Tòa án... xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số ... ngày.. .tháng.. .năm... với các bị cáo” là chưa phản ánh đầy đủ việc xét xử là công khai hay xử kín và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số... ngày... tháng... năm nào như mẫu bản án đã hướng dẫn. Mục “Thư ký phiên tòa” Theo hướng dẫn thì chỉ cần ghi họ tên thư ký của Tòa án nào nhưng hiện nay cũng còn nhiều cách viết khác nhau như “Thư ký phiên tòa Ông Đinh Đức T”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN”; “Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, Thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN” thay vì chỉ cần viết “Thư ký phiên tòa Ông Nguyễn Văn Đ, thư ký Tòa án nhân dân thành phố QN, tỉnh QN” là đủ. Về chức vụ của Kiểm sát viên, có bản án ghi “Kiểm sát viên” có bản án lại ghi “Kiểm sát viên trung cấp”, “Kiểm sát viên sơ cấp”.... Có vụ án, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vụ án phải hoãn nhiều lần thì HĐXX cũng ghi tất cả các quyết định hoãn phiên tòa vào phần này “Ngày... theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS, ngày 29 tháng 7 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2020/QĐST-HSST, ngày 14 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐST-HSST, ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo...”; có bản án lại không ghi các quyết định này. - Phần lý lịch của bị cáo Hồ sơ vụ án phản ánh bị cáo không có bí danh hay tên gọi nào khác nhưng có bản án vẫn ghi “Tên gọi khác bí danh Không” là thừa. Có bản án không phản ánh nội dung “dân tộc, giới tính, tôn giáo, quốc tịch” của bị cáo. Bị cáo sinh ngày 02/7/2002, phạm tội ngày 30/6/2019 tức là khi phạm tội thì bị cáo mới 16 tuổi 11 tháng 28 ngày nhưng bản án chỉ ghi ở phần lý lịch bị cáo là “Sinh ngày 02/7/2002” mà thiếu mất đoạn “đến ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 11 tháng 28 ngày”. Mặt khác, mẫu bản án số 27-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng TANDTC hướng dẫn “nếu bị cáo trên 18 tuổi thì ghi ngày, tháng, năm sinh hoặc tuổi” theo chúng tôi là chưa thống nhất bởi tuổi của bị cáo chỉ được tính đến thời điểm Tòa án xét xử còn nếu ghi ngày tháng năm sinh của bị cáo thì đó là dữ liệu gắn với một con người suốt cả cuộc đời; đồng thời nếu ghi đầy đủ ngày tháng năm sinh của bị cáo sẽ đảm bảo thống nhất tất cả các bản án trong toàn ngành. + Về “nơi cư trú” của bị cáo Nhiều bản án vẫn dùng từ “Trú tại” theo mẫu bản án cũ phải ghi là “nơi cư trú” hoặc “nơi thường trú” cho phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Cư trú. Trường hợp bị cáo là quân nhân nhưng bản án chỉ ghi nơi cư trú của bị cáo là tên đơn vị của bị cáo Ví dụ “Nơi cư trú Đại đội 20, Bộ Tham mưu Quân khu X” mà không ghi đầy đủ địa danh địa lý nơi đơn vị của bị cáo đóng quân là chưa đầy đủ. Theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Dân sự và Điều 16 Luật Cư trú thì Nơi cư trú của quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đó đóng quân; nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng là nơi đơn vị người đó đóng quân, trừ trường hợp họ có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Dân sự. + Về “trình độ văn hóa học vấn” Một số bản án còn nhầm lẫn giữa trình độ hiểu biết và trình độ chuyên môn của bị cáo nên phản ánh nội dung này trong bản án chưa đúng với nhiều cách viết khác nhau như “trình độ văn hóa Đại học”, “trình độ văn hóa Cử nhân xây dựng”; “trình độ văn hóa 10/12”; “trình độ văn hóa lớp 10”; “trình độ học vấn Lớp 10/12”; “trình độ văn hóa học vấn 11/12”... Học vấn là khái niệm chỉ mức độ của việc học mà một người đã đạt tới, bao gồm nhiều cấp bậc như tiểu học, trung học, đại học… Ở mỗi cấp bậc như thế, ta có thể gọi là một trình độ. Do đó, có thể hiểu rằng trình độ học vấn chính là trình độ hiểu biết do học hỏi mà có. Song, hiện nay, trình độ văn hóa đang được đánh đồng là trình độ giáo dục phổ thông mà theo đó, trình độ văn hóa được dùng để chỉ cấp độ học tập theo các bậc học phổ thông được thể hiện trong mẫu Sơ yếu lý lịch. Tuy nhiên, việc hiểu trình độ văn hóa như trên là chưa đúng, bởi theo nghĩa rộng, trình độ văn hóa còn bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và tinh thần của một cá nhân trong đó chứa đựng cả cách sống, lối sống. Còn trình độ giáo dục phổ thông là trình độ của mỗi người tiếp thu kiến thức trong quá trình học tập ở các bậc học phổ thông tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Người có trình độ học vấn cao chưa hẳn đã có trình độ văn hóa cao, thậm chí vẫn bị coi là thiếu văn hóa. Có người trình độ học vấn thấp, nhưng ứng xử xã hội chuẩn mực vẫn là người có văn hóa. Do đó, mục “trình độ văn hóa học vấn” trong mẫu bản án hiện nay theo chúng tôi nên thay thế bằng cụm từ “trình độ học vấn” cho phù hợp. + Về “Tiền án, tiền sự; nhân thân” Ghi nội dung này trong bản án chưa đúng, có bản án chỉ ghi tiền án, tiền sự mà không ghi nhân thân của bị cáo; có bản án ghi tiền án của bị cáo không đúng từ ngữ pháp lý như “Tiền án Bản án số 30/STHS ngày 19/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh TQ xử phạt 06 tháng tù treo, thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản; Tiền sự, nhân thân Không”. Có bản án ghi “Tiền án, tiền sự, nhân thân Không”. Đối với một số biện pháp xử lý hành chính, nhiều bản án chỉ ghi ở mục “Nhân thân” “Bị cáo bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường hoặc bị đưa vào trường giáo dưỡng, đi cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số... ngày... tháng... năm... của ....” mà không ghi cụ thể thời gian bị áp dụng các biện pháp này từ khi nào đến khi nào do đó không có cơ sở để nhận biết là tính đến ngày phạm tội thì bị cáo đã được coi là chưa bị xử lý hành chính hay không. Có bản án còn ghi cả những lần bị cáo bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính nhưng theo Luật Xử lý vi phạm hành chính thì hành vi đó đã được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính vào mục “tiền sự”. - Về những thành phần tham gia tố tụng tại phiên tòa Có bản án xác định thừa hoặc sai tư cách tố tụng như Bản án xác định một người tham gia phiên tòa với tư cách tố tụng là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng họ không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung gì, quá trình xét xử Tòa án cũng không xem xét, giải quyết gì đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Trường hợp này hay xảy ra với người mua tài sản ngay tình và tài sản đó do bị cáo trộm cắp được và bán cho họ hoặc trường hợp trước khi mở phiên tòa, đại diện gia đình bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong cho bị hại. Nhiều bản án, khi ghi lý lịch của bị hại là tổ chức, cơ quan, đơn vị nhưng không xác định rõ địa chỉ của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Có trường hợp người làm chứng đã chết sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trong bản án lại xác định “Người làm chứng Nguyễn Văn A; vắng mặt có lý do”... Phần “Nội dung vụ án” Phần này phải thể hiện đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng “là loại câu chủ động, thể hiện rõ hành động và ý chí của các đối tượng được đề cập trong bản án” [2]. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy ở phần này còn một số tồn tại sau - Một số bản án chép lại gần như nguyên văn nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát về diễn biến hành vi phạm tội trong đó thống kê lại đặc điểm toàn bộ vật chứng của vụ án đã thu giữ và xử lý nên làm bản án dài và trùng lặp. - Ghi quan điểm của Kiểm sát viên KSV, của người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong giai đoạn tranh luận chưa đầy đủ nên chưa phản ánh rõ nét hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện ở việc + Có bản án phản ánh đầy đủ đề nghị của KSV về các điểm, khoản, điều của BLHS, BLTTHS để giải quyết phần hình sự nhưng phần các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng thì KSV lại không nêu các điều luật viện dẫn để giải quyết. + Có bản án không nêu ý kiến của người làm chứng hoặc nêu không đầy đủ quan điểm của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của bị hại mặc dù các chứng cứ này trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa đều có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án. Cá biệt có bản án, mặc dù người làm chứng, bị hại, đương sự có mặt và tranh tụng tại phiên tòa nhưng trong bản án lại ghi “Trong quá trình điều tra, người làm chứng khai nhận... ”. Có bản án, mặc dù những lời khai của người làm chứng rất quan trọng và những lời khai này đều được các bên đưa ra khi tranh tụng tại tòa, nhưng vì người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX cũng không ghi vào trong bản án. + Có bản án chỉ nêu quan điểm đề nghị của KSV và lời nói sau cùng của bị cáo mà không phản ánh quan điểm bào chữa của bị cáo mặc dù kiểm tra biên bản phiên tòa cho thấy bị cáo có bào chữa và vì vậy nên bản án cũng không ghi được những ý kiến đối đáp của KSV với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo. Có bản án, mặc dù HĐXX biết KSV nêu nội dung luận tội đúng nhưng đề nghị viện dẫn điều luật sai song tại tòa, HĐXX không hỏi lại để KSV đính chính mà vẫn ghi vào trong bản án các điều luật nhầm lẫn đó nhưng ở phần “Nhận định của Tòa án” thì HĐXX không lập luận gì về nội dung này. + Có bản án khi đại diện VKS tại phiên tòa thay đổi tội danh truy tố bị cáo nhưng bản án cũng không nêu lý do gì và ý kiến của bị cáo ra sao trước sự thay đổi đó. Ví dụ VKS trước đó truy tố bị cáo tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 93 BLHS; bản án viết “Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, vị đại diện VKSND tỉnh HT giữ quyền công tố tại phiên tòa đã thay đổi tội danh của cáo trạng đã truy tố, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân, tâm lý bị cáo trong quá trình phạm tội, từ đó đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H khoảng từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 1 Điều 98 BLHS. Miễn xét về phần dân sự....”. - Việc lựa chọn chứng cứ chứng minh để nêu trong bản án còn thiếu khoa học Có bản án viện dẫn chứng cứ quá dài, có những chứng cứ mà nội dung không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án. Có bản án lại ghi cả những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố vào phần này. Cá biệt có bản án còn ghi nhầm quan điểm giải quyết của HĐXX mà lẽ ra phải được đưa vào phần “Nhận định của Tòa án” vào phần “Nội dung vụ án”. - Sử dụng từ ngữ pháp lý chưa phù hợp. Ví dụ “Quan điểm của Vị đại diện VKSND..... Sau khi phân tích....., Vị cho rằng.......; Vị Kiểm sát viên quyết định giữ nguyên nội dung bản cáo trạng....; Vị còn đề nghị HĐXX... ” . Sử dụng từ ngữ chưa thống nhất như “ông kiểm sát viên”;“vị đại diện VKS”;“ông công tố viên”;“đại diện VKS” hoặc “đồng bọn” trong vụ án đồng phạm hay “tịch thu, sung quỹ nhà nước” phải là “tịch thu sung vào ngân sách nhà nước”... Phần “Nhận định của Tòa án” Phần này phải phản ánh đầy đủ các nội dung theo quy định tại điểm d, điểm đ, điểm e khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy - Việc phân định các đoạn văn trong dấu [ ] nhiều bản án chưa hợp lý thể hiện ở chỗ Thông thường, HĐXX nhận định đánh giá về hành vi, quyết định tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng trước khi giải quyết các vấn đề của vụ án; nhưng có bản án thì HĐXX lại đặt mục này ở cuối cùng của phần “Nhận định của Tòa án” là chưa phù hợp bởi việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của người và cơ quan tiến hành tố tụng là tiền đề trước khi xem xét, giải quyết các nội dung khác của vụ án. Mặt khác, có bản án chia quá nhỏ các nội dung trong dấu [ ] mà không phân định theo mỗi tình tiết hoặc các nhóm tình tiết của vụ án khiến bản án bị rối vì quá nhiều mục. Có bản án, HĐXX phân tích, đánh giá và giải quyết hết các nội dung của vụ án xong và ở mục cuối cùng, trước khi quyết định mới ghi “ [9] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng là phù hợp nên HĐXX chấp nhận”. Nếu viết bản án như vậy thì không sai; tuy nhiên chưa thể hiện rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Lẽ ra, các ý kiến của KSV, của người tham gia tố tụng đề nghị tại phiên tòa phải được HĐXX khẳng định chấp nhận hoặc không chấp nhận vì lý do gì tại mỗi mục dấu [ ] mà HĐXX giải quyết trong phần này của bản án, như vậy mới đảm bảo tính lô gic, tức là thể hiện tính tranh tụng rõ nét trong việc giải quyết các nội dung vụ án của HĐXX. Ví dụ “... từ sự phân tích nêu trên, HĐXX có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận Bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS năm 2015. Do vậy, ý kiến của ông KSV tại phiên tòa có cơ sở chấp nhận; ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về việc bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận”. Thực tế, nhiều bản án chưa phản ánh đầy đủ nội dung tranh tụng tại phiên tòa và thường thuộc hai trường hợp là 1 quá trình tranh tụng, các bên có tranh luận nội dung đó nhưng không được HĐXX phản ánh vào bản án và 2 quá trình tranh tụng, HĐXX quên không đưa vấn đề đó ra cho các bên tranh luận nên bỏ sót không đưa vào bản án. - Một số bản án chưa nêu được mục đích, động cơ phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội hoặc điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo, nhất là trong trường hợp bị cáo là người dưới 18 tuổi. Một số bản án xét xử các vụ án đồng phạm nhưng HĐXX không phân tích làm rõ hình thức đồng phạm, không xác định rõ vai trò của từng bị cáo trong vụ án nhưng trong quyết định của bản án lại áp dụng các quy định về đồng phạm Điều 17 và Điều 58 BLHS với các bị cáo. - Khác với phần “Nội dung vụ án” ở trên; ở phần này, câu văn được HĐXX sử dụng là “loại câu bị động tức là câu có chủ ngữ chỉ người, vật được hoạt động của người, vật khác hướng vào, chủ yếu nhằm chỉ đối tượng của hoạt động” [3]. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ trong một số bản án còn chưa phù hợp, thiếu tính pháp lý thể hiện ở việc Nhiều bản án hay sử dụng từ “Tại phiên tòa hôm nay” trong khi vụ án từ khi khai mạc đến khi tuyên án phải kéo dài ngày; vậy “hôm nay” xác định trong bản án là hôm nào? Sử dụng từ “tang vật” trong khi BLTTHS xác định đó là “vật chứng”. Bản án đã được HĐXX nghị án xong và tuyên án nhưng trong phần này bản án vẫn nêu “Khi quyết định hình phạt, HĐXX sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung” hoặc “về nhân thân các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và người lao động”. Có bản án nêu những nhận xét, đánh giá mang tính cảm quan như “từ những đánh giá trên, nghĩ cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Văn T ra khỏi đời sống xã hội....”. Hoặc “về nhân thân ba bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ 03 bị cáo chưa có tiền án, tiền sự... ”. - Bản án viết chưa đúng mẫu; bản án viết cùng một nội dung nhưng chưa thống nhất với nhau giữa ngay trong một Tòa án hoặc giữa các Tòa án với nhau. Ví dụ Mẫu bản án của TANDTC hướng dẫn các nội dung cần phải có trong bản án nhưng có bản án lại chép nguyên văn mẫu này vào bản án và đánh giá của HĐXX lại mập mờ, không rõ như “ [1] Phân tích tính hợp pháp của các hành vi tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng ... của ... trong quá trình ... đã cơ bản thực hiện đúng thẩm quyền ....; [2] Phân tích chứng cứ buộc tội và gỡ tội đối với các bị cáo...”. Nhiều bản án sau khi phân tích hành vi khách quan của bị cáo thì HĐXX đã trích dẫn cả điều luật của BLHS về tội danh mà bị cáo đã phạm vào bản án nhưng nhiều bản án lại không trích dẫn điều luật BLHS bị cáo bị xét xử vào bản án. Có bản án nêu cả quyền kháng cáo của người tham gia tố tụng thành một mục trong phần “Nhận định của Tòa án” nhưng có bản án thì không có mục này. - Về biện pháp tư pháp Nhiều bản án áp dụng pháp luật thiếu chính xác như thay vì áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 589 BLDS thì lại ghi áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589 BLDS. Có trường hợp được HĐXX xác định tư cách tham gia tố tụng trong bản án là “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” nhưng phần này HĐXX lại không nêu họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì đến vụ án; thực tế thì họ không có yêu cầu, đề nghị gì nhưng phần “Quyết định” của bản án lại tuyên họ có quyền kháng cáo bản án là thiếu lô gic và chưa chính xác. Cá biệt, một số vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” chưa xác định đầy đủ tư cách của chủ sở hữu phương tiện là bị đơn dân sự nên không buộc bị đơn bồi thường thiệt hại. - Phần ghi quan điểm của HĐXX về xử lý vật chứng Nhiều bản án chưa nêu được căn cứ pháp luật để HĐXX xử lý các vật chứng của vụ án mà chỉ ghi chung chung là “... đối với các vật chứng....là những vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy” nhưng trong phần quyết định của bản án lại tuyên “...áp dụng Điều 47 BLHS, căn cứ Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy...” là thiếu lô gic và chưa đúng các điểm, khoản của điều luật được áp dụng. - Mục [Về án phí], có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án viện dẫn khoản khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 cùng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 nhưng có bản án lại chỉ nêu “Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật”. - Về việc giải quyết các biện pháp ngăn chặn Trước khi xét xử bị cáo phạm tội “Đánh bạc”, bị cáo bị Tòa án ra lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; khi xét xử, bị cáo bị phạt tiền; HĐXX nhận định trong bản án và quyết định trong phần quyết định của bản án là “hủy quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú trước đó” với bị cáo nhưng có bản án cũng vẫn xét xử tội đánh bạc như vậy thì HĐXX lại không quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này. Tương tự như vậy, bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì có HĐXX lại nhận định trong bản án là “tiếp tục áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú với bị cáo cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật” chứ không đưa vào phần quyết định nội dung này, có HĐXX lại không đề cập gì đến nội dung này trong bản án. Phần quyết định Phần này phải phản ánh đầy đủ nội dung theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS. Mẫu viết bản án tại Nghị quyết số 05/2017/NQ- HĐTP 19/9/2017 không hướng dẫn HĐXX phải ghi áp dụng “điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS” vào bản án. Tuy nhiên, nghiên cứu các “Quyết định” của những bản án đã được công bố cho thấy có rất nhiều cách tuyên với nội dung và hình thức khác nhau và không thống nhất về hình thức và nội dung như - Nhiều bản án sử dụng từ “Căn cứ” theo đúng mẫu bản án của TANDTC, nhiều bản án lại sử dụng từ “Áp dụng”. - Cách tuyên án cũng khác nhau Nhiều bản án tuyên căn cứ các điều luật về tội danh; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, án phí sau đó mới tuyên bố bị cáo phạm tội. Nhiều bản án lại tuyên bố bị cáo phạm tội gì sau đó mới tuyên áp dụng điều luật ở từng mục hình sự, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, án phí .... Quyết định về án phí Tương tự như phần “Nhận định của Tòa án” đã nêu trên, có bản án viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14; có bản án chỉ viện dẫn khoản 2 Điều 136 BLTTHS; có bản án lại viện dẫn cả khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14...như Có bản án tuyên “Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 BLTTHS; Quyết định 1. Về hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội Giết người; áp dụng khoản 1 Điều 123 điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo.....”. Có bản án lại tuyên “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Tuyên bố bị cáo Lê Thái Ng phạm tội Đánh bạc; áp dụng khoản 1 Điều 321... BLHS xử phạt bị cáo Lê Thái Ng đồng”. Bản án khác tuyên “ Vì các lẽ trên, Quyết định [1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 BLHS; tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội đánh bạc; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51......BLHS xử phạ t...”. Có bản án lại tuyên tất cả các điều luật được áp dụng ngay sau từ “Quyết định” như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 2 Điều 56 BLHS. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14... Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy D phạm tội ...; phạt bổ sung đ. Về án phí Bị cáo Nguyễn Huy D phải nộp đồng án phí hình sự sơ thẩm ...”. Có bản án lại tuyên trong “Quyết định” cả các điều luật của BLTTHS về thẩm quyền của Tòa án như “Vì các lẽ trên, Quyết định Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 268, Điều 269 và Điều 299 BLTTHS; tuyên bố bị cáo Luyện Văn Đ phạm tội giết người; căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm ... BLHS xử phạt bị cáo ....”. Có bản án do bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong phần bồi thường trước khi xét xử thì HĐXX lại ghi “Vì các lẽ trên, Quyết định 1. Về tội danh và hình phạt... 2. Về trách nhiệm dân sự Miễn xét”. - Về quyết định của Hội đồng xét xử với việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án cũng không thống nhất Có bản án ghi trong phần Quyết định “Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án có Quyết định tạm giam riêng của Hội đồng xét xử”. Có bản án lại tuyên “Áp dụng khoản 1 Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án”; nhiều bản án không tuyên các nội dung này trong quyết định của bản án mà HĐXX thảo luận, quyết định nội dung này và được ghi trong biên bản nghị án sau đó HĐXX công bố quyết định này sau khi tuyên án. - Đối với những bản án tuyên bị cáo còn phải có nghĩa vụ thi hành án dân sự quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí ... thì theo hướng dẫn của Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 về thi hành Luật Thi hành án hình sự, tại phần cuối cùng Quyết định của bản án phải ghi “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”. Tuy nhiên nhiều bản án lại không ghi nội dung này. Ngoài ra, một số bản án do chưa cập nhật nội dung Luật Thi hành án hình sự 2019 đã có hiệu lực thi hành nên trong bản án vẫn tuyên “trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự” Điều 69 là của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã hết hiệu lực thi hành là không chính xác. - Nhiều quyết định của bản án trong mục xử lý vật chứng lại ghi lại đặc điểm của toàn bộ các vật chứng trong vụ án là không cần thiết hoặc tuyên tịch thu vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, tài sản do phạm tội mà có nhưng lại không xác định những tài sản, vật chứng đó là của ai. Có trường hợp không áp dụng Điều 128 BLTTHS để kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án mà chỉ tuyên “tạm giữ xe mô tô ... để đảm bảo thi hành án”. Với những hiểu biết còn hạn chế của mình; chúng tôi xin nêu lên một số nội dung còn tồn tại hoặc chưa thống nhất trong hình thức và nội dung viết bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án các cấp để cấp có thẩm quyền hướng dẫn và thống nhất trong toàn ngành nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung cũng như chất lượng viết bản án nói riêng./. Chủ toạ phiên toà vụ gian lận điểm ở Hà Giang công bố bản án - Ảnh Nguyễn Hưng/ CAND [1] Điều 132 BLTTHS [2] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao [3] Một số vấn đề về bản án và văn phong bản án- Lê Văn Minh, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Bình luận Bản án là tập hợp những bài viết về những chủ đề nổi bật, được nhiều người quan tâm thông qua những bản án đã được xét xử trước đó. Từ những Bản án đã được xét xử thực tế, người viết nêu lên quan điểm của mình về việc áp dụng pháp luật của Tòa án trong quá trình xét với những bài viết nêu quan điểm, những bài bình luận về một vấn đề pháp lý, Bình luận Bản án dựa trên những bản án đã được xét xử trên thực tế, những tranh chấp có thật trong cuộc trí của chuyên mục Bình luận Bản án trên trang chủ Thư viện bản ánMỗi bài Bình luận Bản án sẽ tóm tắt nội dung vụ án ngắn gọn nhất giúp người đọc có thể nắm bắt khái quát thông tin vụ việc, bên cạnh đó bài viết còn trích dẫn những quy định pháp luật mà Toà án làm căn cứ áp dụng xét muốn xem toàn bộ nội dung vụ án, nhận định của Hội đồng xét xử hay quyết định của Tòa án, người đọc có thể vào đường link dẫn liên kết để có thể biết được toàn bộ những thông tin trênNgoài ra, khi trích dẫn những quy định của pháp luật được Tòa án căn cứ áp dụng để xét xử, mỗi bài bình luận sẽ dẫn chiếu đường link văn bản giúp người đọc còn có thể xem toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng trong bản ánTrong mục Bình luận bản án còn có những bài tổng hợp một số bản án có nội dung đáng chú mời Quý khách hàng truy cập và trải nghiệm miễn phí TẠI là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info 1. Các dạng vi phạm dẫn đến vụ án hình sự bị hủy Qua thực tiễn xét xử, cùng như tham khảo các báo cáo của Tòa án, Viện kiểm sát... chúng tôi thấy phổ biến một số dạng vi phạm sau đây Vi phạm nghiêm trọng các qui định của BLTTHS a. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án Điều 110 BLTTHS Vi phạm này thể hiện ở hai dạng Cơ quan tiến hành tố tụng xác định không đúng nơi xảy ra hành vi phạm tội dẫn đến điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền lãnh thổ, hoặc vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện thụ lý giải quyết. b. Vi phạm trong việc hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng Điều 131, 132, 135, 137, 138, 139 BLTTHS Những vi phạm này được thể hiện cụ thể như không đảm bảo sự tham gia khách quan của người bào chữa, người giám hộ theo quy định của BLTTHS, có những trường hợp hình thức biên bản thể hiện đúng quy định tố tụng nhưng thực chất thì các biên bản ghi lời khai, hỏi cung không có người giám hộ hoặc Luật sư tham gia mà sau đó họ mới ký vào để hợp pháp hóa các biên bản. Một số trường hợp lập biên bản hỏi cung, ghi lời khai không thể hiện tính khách quan do biên bản được soạn thảo trên máy vi tính với những nội dung giống nhau đến từng dấu chấm, dấu phẩy; các biên bản viết tay thì thể hiện sao chép lại nội dung lời khai của người bị hại, nhân chứng, vi phạm này thường xảy ra ở các vụ án có số lượng đông bị hại và nhân chứng và lời khai của họ thường cùng một nội dung. Biên bản ghi lời khai không gạch chéo phần trống, hoặc không thể hiện rõ việc bị can đã được nghe lại hoặc được đọc lại xác nhận nội dung biên bản. Đặc biệt các biên bản ghi lời khai nhân chứng thường không thể hiện rõ nội dung vì sao biết được tình tiết đó mà khai ra theo quy định của Điều 67 khoản 2 BLTTHS do vậy khi nhân chứng có sự thay đổi lời khai thì không có cơ sở để đánh giá lời khai nào đúng, lời khai nào không đúng. Cũng không ít biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai bị hại, nhân chứng nhưng không có phiên dịch trong những trường hợp họ là người dân tộc. Lời khai của bị can, bị cáo, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn nhưng không đối chất làm rõ dẫn đến thiếu căn cứ buộc tội, phải hủy án. Theo quy định tại Điều 138 BLTTHS “Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì ĐTV tiến hành đối chất”, nhưng qua thực tế cho thấy nhiều vụ án Tòa án tuyên hủy để điều tra lại chính là do vi phạm các quy định tố tụng về nội dung. c. Vi phạm tố tụng trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng, khám xét, thực nghiệm điều tra, giám định Điều 140, 150, 153, 155, 156 BLTTHS Vi phạm trong việc khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng xảy ra nhiều và thể hiện ở việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường không đúng quy định, thu giữ vật chứng nhưng không lập biên bản niêm phong. Vi phạm trong việc khám xét thể hiện ở việc không tiến hành khám xét nơi cất giấu tang vật. Trong việc thực nghiệm điều tra, vi phạm thể hiện ở việc không tổ chức thực nghiệm tại hiện trường nơi xảy ra vụ án mà thực nghiệm ở nơi khác. Trong giám định hoặc định giá tài sản cũng có nhiều vi phạm như không trưng cầu giám định hoặc giám định, định giá không đúng quy định; các loại vi phạm này thường xảy ra trong các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe; xâm phạm sở hữu; tội phạm về quản lý kinh tế; xâm phạm về trật tự an toàn giao thông. d. Việc điều tra, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ để làm căn cứ kết luận hành vi phạm tội, người phạm tội và các tình tiết khách quan của vụ án Điều 63 BLTTHS Dạng vi phạm thể hiện cụ thể là chưa làm rõ hậu quả của tội phạm, hoặc chưa làm rõ tuổi của bị cáo hoặc người bị hại trong các vụ án mà bị cáo, bị hại còn ở tuổi chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án “Hiếp dâm trẻ em”, bị hại, bị cáo được sinh ra ở khu vực phía Nam thường khai sinh quá hạn và không đúng với thời điểm thực tế bị cáo, bị hại được sinh ra. Nhưng khi tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn thì các cơ quan tiến hành tố tụng không giám định độ tuổi để làm căn cứ khởi tố, truy tố cho chính xác mà vẫn kết luận điều tra truy tố, trong khi việc xác định tuổi của bị cáo, bị hại có ý nghĩa rất quan trọng trong xác định tội danh và quyết định đường lối xử lý. Vi phạm trong xác định lý lịch tư pháp của người thực hiện hành vi phạm tội không chính xác xảy ra nhiều, dẫn đến việc khởi tố bị can, kết luận điều tra, truy tố và kết án không đúng tên người phạm tội. đ. Vi phạm về giới hạn xét xử, việc xét hỏi, tranh luận, nghị án, ghi biên bản phiên tòa và phạm vi xét xử Điều 196, 200, 207, 222, 238 BLTTHS Vi phạm về giới hạn xét xử thường gặp là VKS truy tố một tội danh nhưng Tòa án xử bị cáo về nhiều tội danh khác nhau. Vi phạm về việc xét hỏi và tranh luận thường gặp là không công bố lời khai trong quá trình xét hỏi theo yêu cầu của VKS; tranh luận và xét hỏi đan xen nhau, không đúng quy định tại Điều 207 BLTTHS. Vi phạm về việc nghị án và ghi biên bản phiên tòa thường gặp là nghị án một nội dung nhưng tuyên án một nội dung khác, nghị án tội này nhưng tuyên trong bản án tội khác như nghị án tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” nhưng tuyên án tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, biên bản nghị án không ghi điều luật hay khung hình phạt áp dụng, thậm chí có trường hợp không ghi cả mức hình phạt trong biên bản nghị án, nhiều trường hợp tên và số lượng thành viên HĐXX trong biên bản nghị án khác với tên và số lượng thành viên HĐXX trong bản án và biên bản phiên tòa khác nhau; có sự mâu thuẫn giữa biên bản phiên tòa và biên bản nghị án về số lượng và thành phần những người tiến hành tố tụng; những vi phạm nghiêm trọng này của Tòa án nhưng VKS các địa phương cũng không phát hiện kịp thời để kiến nghị, kháng nghị, những vi phạm đó làm ảnh hưởng rất lớn tới quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nên cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm tuyên hủy án để điều tra lại, xét xử lại. Vi phạm về phạm vi xét xử phúc thẩm là trường hợp bị cáo rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa nhưng không đình chỉ xét xử phúc thẩm. e. Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án Điều 51, 52, 53, 54, 55 BLTTHS Việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng thường thể hiện như nhầm lẫn giữa nguyên đơn dân sự và bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người có quyền, nghĩa vụ liên quan; nhầm lẫn giữa bị hại với người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án như không đưa chủ phương tiện, Công ty bảo hiểm tham gia tố tụng trong các vụ án giao thông. Việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng hoặc không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng vào quá trình giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng rất lớn tới việc giải quyết khách quan toàn diện vụ án, cũng như ảnh hưởng tới quyền nghĩa vụ của các đương sự, ví dụ khi xác định sai người bị hại thành người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng tới quyền kháng cáo về hình phạt của họ đối với bị cáo và làm thiệt hại cho họ khi quyết định về phần bồi thường. Vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của BLHS a. Truy tố, xét xử không đúng tội danh Những vi phạm này thường xảy ra ở những tội phạm có dấu hiệu đặc trưng gần giống nhau như giết người với cố ý gây thương tích, giết người trong trạng thái bị kích động mạnh với giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với giết người tại khoản 2 Điều 93 BLHS... hoặc các tội phạm về kinh tế như tội lừa đảo và tội lạm dụng tín nhiệm, hoặc hành vi chỉ phạm vào một tội nhưng truy tố, xét xử về nhiều tội danh khác nhau. b. Bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Đây là vi phạm xảy ra khá nhiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, được thể hiện ở việc các cơ quan tố tụng đánh giá chứng cứ không đúng, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến bỏ lọt hành vi phạm tội, bỏ lọt người phạm tội, nhất là bỏ lọt những hành vi đi liền với nhau cấu thành nhiều tội phạm khác nhau nhưng chỉ truy tố, xét xử một tội hoặc nhiều người đồng phạm cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng chỉ xử lý người chủ mưu, người thực hành, bỏ lọt các đồng phạm khác, như trong các vụ án giết người có đông đồng phạm tham gia, thường chỉ xử lý kẻ chủ mưu, thực hành còn những đồng phạm khác có vai trò giúp sức về tinh thần thì xử lý hành chính hoặc xử lý tội gây rối trật tự công cộng... Một số tội như “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” để “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có nơi xử hai tội, có nơi thu hút về một tội, đây cũng là những nội dung các VKS địa phương vướng mắc thỉnh thị nhưng chưa được quan tâm hướng dẫn để có nhận thức và áp dụng thống nhất. c. Xác định sai khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cho hưởng án treo, quyết định hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp không đúng Việc xác định sai khung hình phạt thường gặp là bị cáo phạm vào khung tăng nặng nhưng truy tố hoặc xét xử ở khung nhẹ hơn. Áp dụng tình tiết tăng nặng giảm nhẹ không đúng được thể hiện như bỏ sót các tình tiết tăng nặng, cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ không đúng qui định, áp dụng Điều 47 BLHS không đúng, đây cũng là những vi phạm xảy ra khá phổ biến trong xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án bị tuyên hủy nói riêng. Cho hưởng án treo không đúng qui định cũng là những vi phạm xảy ra nhiều, vi phạm này thường bắt nguồn từ việc nhận thức và áp dụng không đúng các qui định của pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, như nhận thức áp dụng sai các tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… từ đó cho hưởng án treo cả những đối tượng chủ mưu, phạm nhiều tội cùng lúc hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, các đối tượng phạm tội có tính chất côn đồ, hoặc cho hưởng án treo đối với các bị cáo phạm các tội dư luận lên án, vi phạm nghiêm trọng Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo. Sử dụng tiền án của bị cáo để xác định là tình tiết định tội, đồng thời lại tiếp tục sử dụng tiền án đó để tính tái phạm đối với bị cáo, vi phạm nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Các vi phạm khác trong việc quyết định hình phạt như không trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù vi phạm Điều 44 BLHS. Trường hợp xử phạt tù có thời hạn nhưng thấp hơn mức thấp nhất của loại hình phạt tù có thời hạn. Áp dụng biện pháp tư pháp không đúng thường liên quan đến việc xử lý vật chứng. 2. Bất cập, hạn chế và kiến nghị hoàn thiện. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại Trường hợp “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS là căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Thế nhưng, mặc dù tại điểm o khoản 1 Điều 4 BLTTHS đã giải thích khái niệm Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhưng đây là giải thích chung không có quy định giải thích cụ thể các sai sót bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và cũng chưa đề ra tiêu chí phân biệt ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hiểu cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm còn có những ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử là việc Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai phạm về mặt thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết xét xử vụ án không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hành chính làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử được hiểu là những vi phạm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng”. Như vậy, việc BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích rõ cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử” đã làm cho việc hiểu và áp dụng pháp luật gặp khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất giữa các địa phương, các cấp Tòa, ảnh hướng đến chất lượng trong phán quyết của bản án phúc thẩm. Về căn cứ hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại Đối với trường hợp“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS. Chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án. Trong BLTTHS, chứng cứ, tài liệu được xem là căn cứ quan trọng không thể thiếu để Tòa án giải quyết vụ án khách quan, chính xác và đúng pháp luật. Về nguyên tắc, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng phải đáp ứng hết các tiêu chuẩn khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi vụ án được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã phát hiện sự tồn tại của các chứng cứ, tài liệu mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ phải hủy bản án sơ thẩm. Như vậy trong căn cứ này, chúng ta phải làm rõ nội dung thế nào là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Hiện nay, BLTTHS chưa có quy định nào nhằm xác định việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau, cụ thể Một là, nếu các chứng cứ đã tồn tại trong giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ án nhưng nó không xuất hiện vì do một trong các thành phần tham gia tố tụng cố tình che giấu không làm cho chúng xuất hiện cơ quan điều tra không thu thập được mặc dù đã áp dụng các biện pháp theo quy định và Tòa án cấp sơ cũng không thể phát hiện ra đến giai đoạn phúc thẩm mới phát hiện ra vậy đây có phải là vấn đề điều tra cấp sơ thẩm không đầy đủ hay không? Hai là trường hợp ngược lại, trong giai đoạn sơ thẩm, các thành phần tham gia tố tụng đã xuất trình giao nộp các chứng cứ này nhưng Tòa án đã không sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án đến khi giải quyết phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm mới phát hiện ra và đây có thuộc trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ không? Thiết nghĩ để hiểu chính xác, đầy đủ nhất tất cả các vấn đề trên là cần có sự hướng dẫn, giải thích. 3. Kiến nghị hoàn thiện Về căn cứ hủy bản án hình sự để xét xử lại Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp hủy án để xét xử lại “Có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 358 BLTTHS. Theo chúng tôi về khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố như sau Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩ là những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật, khách quan của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng. Để làm rõ được khái niệm này, chúng tôi nêu một số những vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm bao gồm cả việc chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, cũng như một số việc cần phải tiến hành sau phiên tòa; những vi phạm cũng rất đa dạng song có thể nêu lên một số vi phạm thủ tục tố tụng thường xảy ra dẫn đến việc hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại như sau Một là, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử; Hai là xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng; Ba là không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án; Bốn là vắng mặt thành phần tham gia tố tụng quan trọng nhưng không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp vắng mặt theo luật định. Năm là không thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa khi thuộc trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định của BLTTHS; Sáu là vi phạm về thủ tục tiến hành phiên tòa; Bảy là bỏ sót chưa giải quyết triệt để hết các yêu cầu của người tham gia tố tụng; Tám là việc nghị án không đúng. Bên cạnh đó, một điều cần lưu ý, không phải tất cả các vi phạm pháp luật BLTTHS của tòa án cấp sơ thẩm đều là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà những vi phạm pháp luật đó phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm cho việc giải quyết đó thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng thì không coi là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp xét xử sơ thẩm xét xử lại. Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ hủy bản án hình sự để điều tra lại. Cần có văn bản hướng dẫn đối với trường hợp hủy án để điều tra lại“Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” tại điểm b khoản 1 Điều 358 BLTTHS, theo chúng tôi văn bản hướng dẫn như sau “Việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được cần phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây 1/ Các vấn đề được Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra đã tồn tại ngay từ đầu khi thụ lý xét xử sơ thẩm nhưng do Cơ quan điều tra và thành phần tham gia tố tụng không biết đến sự tồn tại của chúng hoặc chúng chưa xuất hiện. Việc không biết các vấn đề này có thể là do nguyên nhân khách quan làm cho Cơ quan điều tra không thu thập được và các thành phần tham gia tố tụng không biết song cũng có thể do một số người tham gia tố tụng biết nhưng cố ý che dấu không cung cấp làm cho Tòa án sơ thẩm không thể biết được. Ngược lại cũng có thể do người tham gia tố tụng hoặc những người tiến hành tố tụng biết mà che dấu, bỏ qua không xem xét chúng, làm chúng không được tồn tại trong hồ sơ vụ án. 2/ Về mặt thời gian, các vấn đề được xem là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được được Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm phát hiện ra sự tồn tại và sự quan trọng của chứng cứ đó nhằm giải quyết triệt để vụ án. Việc Tòa án phát hiện ra có tồn tại chứng cứ mới có thể do quá trình Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá các chứng cứ đó hoặc cũng có thể là do người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phát hiện sự tồn tại các chứng cứ mới nhưng các chứng cứ này Tòa án không thể bổ sung, thu thập ngay tại phiên tòa được”. Từ các lập luận trên theo chúng tôi để giải thích việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được thì phải căn cứ vào hai tiêu chí nguyên nhân chúng tồn tại, xuất hiện và thời điểm chúng xuất hiện đã làm thay đổi nội dung vụ án và khi Tòa án phát hiện ra chúng mà không thể bổ sung ngay được thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước, Quảng Nam xét xử vụ án hình sự -Ảnh VP

bình luận bản án hình sự